Quản lý chất thải sinh hoạt và nhà máy xừ lý rác theo công nghệ mới

Quản lý chất thải sinh hoạt và nhà máy xừ lý rác theo công nghệ mới

Quản lý chất thải sinh hoạt và nhà máy xừ lý rác theo công nghệ mới

  • Mã SP:NN rc
  • Giá gốc:120,000,000 vnđ
  • Giá bán:115,000,000 vnđ Đặt mua

CHƯƠNG 1. DANH MỤC BẢNG

 

Bảng 2.1: Giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm trong khí thải 36

(QCVN 30:2012/BTNMT) 36

Bảng 3.1: Hệ số tiêu hao không khí 38

Bảng 3.2 Thành phần nhiên liệu dầu DO theo lượng mol. 39

Bảng 3.3: Lượng không khí cần thiết để đốt 100 kg dầu DO. 39

Bảng 3.4: Thành phần và lượng sản phẩm cháy khi đốt 100 kg dầu DO. 40

Bảng 3.5: Thành phần các chất trong rác thải đô thị. 41

Bảng 3.6 : Thành phần rác sinh hoạt chuyển thành lượng mol. 42

Bảng 3.7: Thành phần và lượng sản phẩm cháy khi đốt 100 kg dầu DO. 43

Bảng 3.8: Các thông số kỹ thuật cơ bản của lò đốt chất thải công nghiệp theo Bảng 1 - QCVN 30:2012/BTNMT 48

Bảng 3.9 : Các đặc tính của béc phun thấp áp và cao áp 52

Bảng 4.1: Khí thải sinh ra do đốt rác từ buồng sơ cấp: 60

Bảng 4.2: Khí thải sinh ra do đốt dầu từ buồng sơ cấp: 60

Bảng 4.3: Thành phần khí thải vào buồng thứ cấp 61

Bảng 4.4: khí thải sinh ra từ dốt dầu buồng thứ cấp 61

Bảng 4.5 Thành phần khí thải đi ra khỏi lò đốt 62

Bảng 4.6 : Nồng độ chất ô nhiễm trước khi xử lý 62

 

Dự án:

Thiết kế nhà máy xử lý rác thải với công suất 250 tấn/ngày - 300 tấn/ngày

Yêu cầu:

ü Diện tích: 15ha = 500m x 300m

ü Công suất: 250 – 300 tấn/ngày

ü Loại: rác thải sinh hoạt và rác thải nguy hại

ü Sử dụng công nghệ không chôn lập

 

ĐẶT VẤN ĐỀ

Cho đến nay, chôn lấp vẫn là biện pháp xử lý chất thải rắn phổ biến nhất đối với nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ưu điểm chính của công nghệ chôn lấp ít tốn kém và có thể xử lý nhiều loại chất thải rắn khác nhau so với công nghệ khác. Tuy nhiên hình thức chôn lấp lại gây ra những hình thức ô nhiễm khác như ô nhiễm nước, mùi hôi, ruồi nhặng, côn trùng…Hơn nữa, công nghệ chôn lấp không thể áp dụng để xử lý triệt để các loại chất thải y tế, độc hại. Ngoài ra trong quá trình đô thị hoá như hiện nay, quỹ đất ngày càng thu hẹp, dẫn đến khó khăn trong việc lựa chọn vị trí làm bãi chôn lấp rác.

Vì vậy, áp dụng một số biện pháp xử lý rác khác song song với chôn lấp là một nhu cầu rất thiết thực. Công nghệ đốt chất thải rắn, một trong những công nghệ thay thế, ngày càng trở nên phổ biến và được ứng dụng rộng rãi đặc biệt với loại hình chất thải rắn y tế và độc hại. Công nghệ đốt chất thải rắn sẽ ít tốn kém hơn nếu đi kèm với biện pháp khai thác tận dụng năng lượng phát sinh trong quá trình đốt.

Rác thải là hỗn hợp khó phân hủy bao gồm nhiều thành phần rác như nhựa, rác thực phẩm, thủy tinh, kim loại,…Rác thải thường được đưa đi chôn lấp nhưng do khối lượng cồng kềnh, tốn nhiều chi phí vận chuyển, chiếm nhiều diện tích đất, thời gian phân hủy kéo dài hàng chục năm, phát tán mùi hôi và côn trùng, dịch bệnh và đặc biệt là phát sinh một lượng lớn nước rỉ rác rất độc hại cho môi trường đất và nguồn nước ngầm. Nên phương pháp đốt rác được sử dụng nhiều với các ưu điểm là vừa tận dụng nhiệt, vừa giảm diện tích đất chôn lấp, nhưng phương pháp này phát sinh nhiều chất thải độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Do đó hiện nay chúng ta đang cần một phương pháp xử lý rác thải an toàn, hiệu quả và hạn chế phát sinh các tiền chất gây bệnh cho con người, đó là phương pháp xử lý rác bằng công nghệ nhiệt hóa hơi.

 

 

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ RÁC THẢI

 

1.1.PHƯƠNG PHÁP CHÔN LẤP

Căn cứ theo hình thức chôn lấp , hiện nay có 3 loại hình chôn lấp chất thảu rắn:

- Bãi hở

- Chôn dưới biển

- Bãi chôn lấp hợp vệ sinh

Căn cứ theo chức năng, hiên nay có các loại BCL như sau:

- BCL CTR sinh hoạt hỗn hợp

- BCL chất thải đã nghiền

- BCL những thành phần chất thải riêng biệt

- Các loại bãi chôn lấp khác

Căn cứ theo địa hình, có các phương pháp:

- Phương phá đào hố/rãnh

- Phương pháp chôn lấp trên đất bằng phẳng

- Phương pháp hẻm núi/lồi lõm

Căn cứ theo kết cấu, có các loại BCL:

- BCL nổi

- BCL chìm

- BCL kết hợp

- BCL ở khe núi

1.1.1. Bãi hở

Đây là BCL theo phương pháp cổ điển, đã được áp dụng từ lâu.

Phương pháp này có các nhược điểm:

- Làm mất vẻ thẩm mỹ của cảnh quan

- Là môi trường thuận lợi cho các động vật gập nhấm, các loài côn trùng, vi khuẩn gây bệnh sinh sôi, nảy nở, gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người.

- Nước rỉ rác sinh ra từ các bãi rác hở này, nếu không kiểm soát sẽ thấm vào các tầng nước ngầm gây ô nhiễm nguồn nước.

- Bãi rác hở sẽ gây ô nhiễm không khí do quá trình phân hủy rác tạo thành khí có mùi hôi thối.

Đây là phương pháp xử lý rẻ tiền nhất, chỉ tốn chi phí cho công việc thu gom và vận chuyển rác từ nơi phát sinh đến bãi rác. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi một diện tích bãi rác lớn.

1.1.2. Chôn dưới biển

 Việc thải bỏ quá mức chất thải rắn xuống biển đã gây tác động lớn đến lớp vi sinh vật cũng như lớp thực vật đáy, ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn của hệ sinh vật biển . Vì vậy, chôn rác dưới biển khong còn được đánh giá cao.

1.1.3. Bãi chôn lấp hợp vê sinh

Đây là phương pháp được nhiều đô thị trên thế giới áp dụng cho quá trình xử lý rác thải. BCL hợp vệ sinh được thiết kế để đổ bỏ CTR sao cho mức độ gây độc hại đến môi trường là nhỏ nhất. Tại đây CTR được đổ vào các ô chôn lấp của BCL, sau đó được nén và bao phủ một lớp đất dày khoảng 1,5cm (hay vật liệu bao phủ) ở cuối mỗi ngày. Khi BCL hợp vệ sinh được sử dụng hết công suất thiết kế của nó, một lớp đất (hay vật liệu bao phủ) sau cùng dày 60cm được phủ lên trên. BCL hợp vệ sinh có hệ thống thu và xử lý nước rò rỉ, khí thải từ BCL.

BCL có các ưu điểm sau:

- ở những nơi có đất trống, BCL hợp vệ sinh thường là phương pháp kinh tế nhất cho việc đổ bỏ CTR

- Chi phí đầu tư ban đầu và chi phí hoạt động thấp

- BCL hợp vệ sinh có thể nhận tất cả các loại CTR mà không cần thu gom riêng lẻ hay phân loại.

- BCL hợp vệ sinh rất linh hoạt trong sử dụng. Khi khối lượng CTR gia tăng có thể tăng cường thêm công nhân và thiết bị cơ giới, trong khi đó các phương pháp khác phải mở rộng nhà máy để nâng công suất.

- Do bị nén chặt à phủ đất lên trên nên các côn trùng, chuột bọ, ruồi muỗi không sinh sôi nảy nở được.

- Các hiện tượng cháy ngầm hay cháy bùng khó có thể xảy ra, ngoài ra giảm thiểu được các mùi hôi thối gây ô nhiễm không khí.

Tuy nhiên, BCL hợp vệ sinh có các nhược điểm sau:

- BCL hợp vệ sinh đòi hỏi diên jtichs đất lớn

- Các lớp phủ của các BCL hợp vệ sinh thường hay bị gió thổi và phát tán đi xa.

- Nếu không xây dựng và quản lý tốt có thể gây ra ô nhiễm nước ngầm và ô nhiễm không khí.

1.2. XỬ LÝ RÁC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHIỆT

Xử lý chất thải rắn bằng phương pháp nhiệt nhằm mục đích giảm thể tích chất thải rắn và thu hồi năng lượng nhiệt, là một trong những yếu tố quan trọng trong hệ thống quản lý tổng hợp chất thải rắn Xử lý chất thải rắn bằng phương pháp nhiệt là quá trình sử dụng nhiệt để chuyển đổi chất thải từ dạng rắn sang dạng khí, lỏng và sản phẩm rắn còn lại... đồng thời giải phóng năng lượng nhiệt.

Quá trình đốt: là quá trình oxy hoá khử chất thải rắn bằng oxy không khí ở nhiệt độ cao. Quá trình đốt được thực hiện với lượng oxy (không khí) lý thuyết được xác định theo phương trình đốt cháy hoàn toàn chất thải rắn gọi là quá trình đốt hoá học (stoichiometric combustion). Quá trình đốt được thực hiện với lượng không khí lớn hơn so với lý thuyết được gọi là quá trình đốt dư khí.

Quá trình khí hoá: là qúa trình đốt không hoàn toàn chất thải rắn dưới điều kiện thiếu không khí (substoichiometric condition) so với lý thuyết và tạo ra các khí cháy như cacbon monooxide (CO), hydrogen (H2) và các khí hydrocacbon.

Quá trình nhiệt phân: là quá trình xử lý chất thải rắn bằng phương pháp nhiệt trong điều kiện hoàn toàn không có oxy. Quá trình nhiệt tuân thủ theo nguyên tắc “3 T”: nhiệt độ (Temperature) – độ xáo trộn (Turbulence) - thời gian lưu cháy (Time)

- Nhiệt độ (Temperature): phải đủ cao bảo đảm để phản ứng xảy ra nhanh và hoàn toàn, không tạo dioxin (nhiệt độ đốt đối với chất thải nguy hại là trên 1100oC, chất thải rắn sinh hoạt >900oC), đạt hiệu quả xử lý tối đa.

- Độ xáo trộn (Turbulence): Để tăng cường hiệu quả tiếp xúc giữa chất thải rắn cần đốt và chất oxy hoá.

- Thời gian (time): thời gian lưu cháy đủ lâu để phản ứng cháy xảy ra hoàn toàn.

So sánh phương pháp thiêu đốt với các phương pháp xử lý khác như chôn lấp thì ưu điểm của phương pháp nhiệt là:

- Thể tích và khối lượng chất thải rắn giảm tới mức nhỏ nhất so với ban đầu , chất thải rắn được xử lý khá triệt để.

- Thu hồi năng lượng: nhiệt của quá trình có thể tận dụng vào nhiều mục đích như chạy máy phát điện, sản xuất nước nóng.

- Phương pháp này chỉ cần một diện tích đất tương đối nhỏ trong khi phương pháp
chôn lấp cần phải có một diện tích rất lớn.

- Hiệu quả xử lý cao đối với các loại chất thải hữu cơ chứa vi trùng lây nhiễm (chất thải y tế), cũng như các loại chất thải nguy hại khác (thuốc bảo vệ thực vật, dung môi hữu cơ, chất thải nhiễm dầu....); chất thải trơ về mặt hoá học, khó phân huỷ sinh học.

- Tro, cặn còn lại chủ yếu là vô cơ, trơ về mặt hoá học.

- Tuy nhiên, phương pháp đốt không phải giải quyết được tất cả các vấn đề của chất thải rắn. Phương pháp này có một vài bất lợi sau đây:

- Công nghệ phức tạp. Vốn đầu tư ban đầu và chi phí vận hành cao hơn so với các phương pháp xử lý khác.

- Không phải tất cả các chất thải rắn đều có thể đốt được thuận lợi. Những loại chất thải có hàm lượng ẩm quá cao hoặc chất thải có thành phần không cháy cao (chất thải vô cơ) không thuận lợi cho quá trình xử lý nhiệt.

- Những nguy cơ tác động đến con người và môi trường có thể xảy ra, nếu các biện pháp kiểm soát quá trình đốt, xử lý khí thải không đảm bảo. Việc kiểm soát các vấn đề ô nhiễm do kim loại nặng từ quá trình đốt có thể gặp khó khăn đối với chất thải

có chứa kim loại như Pb, Cr, Cd, Hg, Ni, As....

Đối với chất thải nguy hại, phương pháp nhiệt có nhiều ưu điểm hơn các phương pháp xử lý khác, đặc biệt đối với chất thải nguy hại không thể chôn lấp mà có khả năng cháy. Phương pháp này áp dụng cho tất cả các dạng chất thải rắn, lỏng, khí.

Kỹ thuật xử lý chất thải rắn áp dụng các quá trình nhiệt phát sinh các một số tác động đến môi trường xung quanh bao gồm: khí, bụi, chất thải rắn, và chất thải lỏng nếu thiết kế lò sai hoặc kiểm soát, vận hành lò đốt không đảm bảo. Do đó, khi áp dụng phương pháp nhiệt để xử lý chất thải rắn, các lò đốt thiết bị phải được trang bị hệ thống kiểm soát sự phát thải. Các chất ô nhiễm không khí được tạo ra có liên quan trực tiếp đến thành phần chất thải được đốt. Các chất ô nhiễm cần kiểm soát là: NOx, SO2, CO, và bụi. Các hợp chất kim loại nặng: như As, Hg, Cd, Be, Cr, Cu, Pb, Mn, Mo, Ni, Se, Sn, V, Zn. Các hợp chất halogen hữu cơ: Là hợp chất nguy hiểm bao gồm PAH (hydrocacbon đa vòng), Polychlorinated dibenzo (PCB), Polychlorinate dibenzo para dioxin (PDD), polychlorinate dibenzo furan (PCDF)....

1.2.1. Phương pháp đốt

Các hệ thống lò đốt có thể được thiết kể để vận hành với 2 loại chất thải rắn: chất thải rắn chưa phân loại (mass –fired) và chất thải rắn đã phân loại (phần còn lại sau khi đã tách phần có khả năng tái sinh được đem đi đốt).

Công nghệ thiêu đốt là đốt chất thải một cách có kiểm soát trong một vùng kín, mang nhiều hiệu quả. Quá trình đốt được thực hiện hoàn toàn, phá hủy hoàn toàn chất thải độc hại bằng cách phá vỡ các liên kết hóa học, giảm thiểu hay loại bỏ hoàn toàn độc tính. Hạn chế tập trung chất thải cần loại bỏ vào môi trường bằng cách biến đổi chất rắn, lỏng thành tro.

Việc quản lý kim loại, tro và các sản phẩm của quá trình đốt là khâu quan trọng. Tro là một dạng vật liệu rắn và trơ bao gồm C, muối, kim loại. Trong quá trình đốt, tro tập trung ở buồng đốt (tro đáy), lớp tro này xem như chất thải nguy hại. Các hạt tro có kích thước nhỏ có thể bị cuốn lên cao (tro bay). Tàn tro cần chôn lấp an toàn vì thành phần nguy hại sẽ trực tiếp gây hại. Lượng kim loại nặng được xác định qua việc kiểm tra khói thải và tro dư của lò đốt.

Thành phần khí thải chủ yếu là CO2, hơi nước, NOx, hydrigen cloride và các khí khác. Các khí vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho con người và môi trường, vì vậy cần có hệ thống xử lý khói thải từ lò đốt.

1.2.1.1. Một số công nghệ đốt chất rắn hiện nay

Những thiết bị đốt chuyên dụng thường có những thành phần sau:

- Hệ thống nhận chất thải và bảo quản chất thải.

- Hệ thống nghiền, phối trộn và cung cấp chất thải

- Thiết bị đốt bằng dầu, gas hoặc điện

- Buồng đốt sơ cấp

- Buồng đốt thứ cấp

- Thiết bị thu hồi nhiệt dư

- Hệ thống xử lý khí thải và ống khói.

Lò đốt thường được chia làm 2 buồng

-    Buồng đốt chính: gồm 2 giai đoạn

+   Giai đoạn 1: chất thải được sấy khô.

+   Giai đoạn 2: cháy và khí hóa.

      -     Buồng đốt sau: gồm 3 giai đoạn

+   Giai đoạn 3: phối trộn.

+   Giai đoạn 4: cháy ở dạng khí.

+   Giai đoạn 5: ôxi hoá hoàn toàn.

Các yếu tố quyết định sự hiệu quả của lò đốt: sự cân bằng năng lượng, hệ thống kiểm soát chế độ đốt, nhiệt độ nóng chảy trong buồng đốt, độ ẩm của chất thải.

Phương pháp đốt là phương pháp hiệu quả và kinh tế nhất để xử lý triệt để chất thải y tế nguy hại.

Quản lý chất thải sinh hoạt và nhà máy xừ lý rác theo công nghệ mới

BÁO CÁO

Về việc thực hiện chính sách, pháp luật

về quản lý chất thải rắn sinh hoạt

(Kèm theo Công văn số              /BTNMT-TCMT ngày      tháng      năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường)

 

Thực hiện Công văn số 1084/UBKHCNMT15 ngày 09 tháng 12 năm 2022 của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về việc báo cáo phục vụ phiên giải trình về quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH), Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo như sau:

I. Tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về quản lý CTRSH.

Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác quản lý CTRSH nói riêng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý CTRSH đã được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan ban hành như Luật Bảo vệ môi trường, các Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các Bộ hướng dẫn chi tiết thi hành, Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ... Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý CTRSH có thể chia thành 02 giai đoạn là trước và sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019 về phiên họp thường kỳ của Chính phủ, cụ thể như sau:

1. Trước khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019.

Sau khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được ban hành, Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành có liên quan đến quản lý CTRSH, trong đó Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu đã quy định cụ thể về quản lý CTRSH. Theo các văn bản nêu trên và các Nghị định quy định chức năng nhiệm vụ của các Bộ, nội dung quản lý nhà nước về CTRSH được giao cho nhiều Bộ cùng tham gia quản lý, cụ thể như sau:

- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Đối với CTRSH, Bộ có trách nhiệm: Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc phân loại, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển, sơ chế, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng từ CTRSH; tổ chức quản lý, thanh tra, kiểm tra các hoạt động bảo vệ môi trường về quản lý CTRSH;

- Bộ Xây dựng có trách nhiệm: Hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH. Ngoài ra, Bộ Xây dựng có trách nhiệm tổ chức lập và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch quản lý chất thải rắn các vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch chất thải rắn các lưu vực sông và quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng liên tỉnh;

- Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì đánh giá, thẩm định công nghệ xử lý CTRSH mới được nghiên cứu và áp dụng lần đầu ở Việt Nam.

Thực hiện các trách nhiệm nêu trên, các Bộ đã trình ban hành hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý CTRSH. Tuy nhiên, do có sự giao thoa, chồng chéo trong công tác quản lý nhà nước về CTRSH nên việc tổ chức xây dựng, ban hành văn bản pháp quy về quản lý CTRSH còn hạn chế, thiếu thống nhất làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý CTRSH.

2. Sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019.

Ngay sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019 về phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 01 năm 2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có các nội dung sửa đổi, bổ sung về quản lý CTRSH; đồng thời đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2020 về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn; Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20 tháng 8 năm 2020 về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1316/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 về Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.

Đặc biệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu bổ sung nhiều cơ chế, chính sách mới về quản lý CTRSH trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo đó, nội dung về quản lý CTRSH đã có nhiều quy định mới, bao gồm quy định về phân loại chất thải tại nguồn, lộ trình hạn chế chôn lấp trực tiếp CTRSH; tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lý CTRSH; thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH từ hộ gia đình, cá nhân theo khối lượng hoặc thể tích chất thải; hướng dẫn về phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH…

Bên cạnh đó, để sớm đưa Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật vào thực tiễn cuộc sống, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức các Hội nghị, Hội thảo tập huấn cho các địa phương thực hiện các quy định mới của Luật, đồng thời cũng đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, nhất là trong lĩnh vực quản lý CTRSH, thực hiện phân loại CTRSH tại nguồn.

Như vậy, có thể thấy hệ thống văn bản pháp quy về quản lý CTRSH ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ, tạo căn cứ pháp lý quan trọng để quản lý chất thải thống nhất theo định hướng mới; là bước tiến quan trọng để thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải; nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường.

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đang tiếp tục khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật để các địa phương áp dụng.

(Chi tiết các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, điều hành kèm theo Phụ lục I của Báo cáo).

II. Kết quả thực hiện quy định pháp luật về quản lý CTRSH giai đoạn 2016 - 2021

1. Thực trạng phát sinh, thu gom, xử lý CTRSH tại Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021  

1.1. Thực trạng phát sinh CTRSH tại đô thị và nông thôn.

Trong giai đoạn 2016 - 2021, lượng CTRSH phát sinh tiếp tục gia tăng trên phạm vi cả nước. Ước tính lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10% - 16% mỗi năm.

Năm 2019, tổng lượng CTRSH phát sinh trên toàn quốc là khoảng 64.018 tấn/ngày, trong đó lượng CTRSH phát sinh tại khu vực đô thị là 35.624 tấn/ngày, lượng CTRSH phát sinh tại khu vực nông thôn là 28.394 tấn/ngày. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có khối lượng CTRSH đô thị phát sinh lớn nhất. Chỉ tính riêng 2 đô thị này, tổng khối lượng CTRSH phát sinh từ khu vực đô thị lên tới 12.000 tấn/ngày, chiếm 33,6% tổng lượng CTRSH đô thị phát sinh trên cả nước.

Trong năm 2020, tổng khối lượng CTRSH phát sinh trên địa bàn các tỉnh/thành phố là khoảng 81.121 tấn/ngày. Các địa phương có khối lượng CTRSH phát sinh trên 1.000 tấn/ngày chiếm 25%.

1.2. Thực trạng phân loại, thu gom, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển CTRSH.

1.2.1. Phân loại

Trong thời gian vừa qua, công tác phân loại chất thải tại nguồn đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện, góp phần giảm thiểu lượng chất thải phải xử lý và tăng cường tái chế, tận dụng tài nguyên. Nhiều địa phương đã tích cực xây dựng các chương trình, dự án để tổ chức triển khai thực hiện. Tuy nhiên, về tổng thể việc phân loại tại nguồn thời gian qua chủ yếu vẫn là xây dựng mô hình, chưa được triển khai trên diện rộng và trong thời gian dài.

Đánh giá chung cho thấy việc phân loại tại nguồn chưa đạt được kết quả cao do quy định chưa có tính cưỡng chế cao, chủ yếu mang tính khuyến khích. Mặt khác, hiện nay nhiều địa phương chưa có thiết bị, phương tiện thu gom riêng đối với từng loại chất thải được phân loại.

Để giải quyết các tồn tại, bất cập nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành quy định về phân loại CTRSH tại nguồn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Theo đó, CTRSH được phân thành 3 loại là chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm và CTRSH khác; đồng thời đưa ra lộ trình bắt buộc thực hiện chậm nhất là ngày 31 tháng 12 năm 2024. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ môi trường cũng giao trách nhiệm cụ thể cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện quy định này. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang khẩn trương xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về phân loại CTRSH tại nguồn (sẽ ban hành vào đầu năm 2023) để làm cơ sở cho các địa phương áp dụng, thực hiện quy định nêu trên.

1.2.2. Thu gom, trung chuyển, vận chuyển

Việc thu gom, vận chuyển được thực hiện khác nhau giữa đô thị và nông thôn, giữa các địa phương và thậm chí giữa các vùng trong cùng một địa phương. Nhìn chung, các địa phương còn thiếu các thiết bị chuyên dụng cho việc thu gom, vận chuyển CTRSH.

Tỷ lệ thu gom CTRSH khu vực đô thị của các địa phương trên toàn quốc năm 2020 đạt 94,71% chất thải phát sinh.

Tại nông thôn, nhiều địa phương đã hình thành các tổ tự quản, hội phụ nữ thực hiện việc thu gom chất thải theo tần suất nhất định và chuyển đến điểm tập kết. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có một số nơi chất thải sau khi được thu gom về điểm tập kết nhưng không được thu gom, vận chuyển về nơi xử lý đã dẫn đến việc hình thành các bãi rác tạm gây ô nhiễm môi trường.

Một số tỉnh/thành phố có sử dụng trạm trung chuyển chất thải trong quá trình thu gom, vận chuyển. Việc lựa chọn các khu vực tập kết và các trạm trung chuyển thường khó khăn, hay gặp phải sự phản đối của người dân do việc tập kết và trung chuyển phát sinh mùi hôi, nước rỉ rác và thu hút côn trùng, ảnh hưởng đến môi trường.

Bên cạnh đó, công tác vận chuyển CTRSH hiện còn gặp nhiều khó khăn do hầu hết các bãi chôn lấp chất thải thường ở xa khu dân cư đã làm tăng chi phí vận chuyển. Ngoài ra, năng lực vận chuyển của một số địa phương còn hạn chế, phương tiện vận chuyển còn thô sơ, chưa bảo đảm an toàn đã gây rò rỉ, rơi vãi chất thải trong quá trình vận chuyển.

1.3. Thực trạng xử lý CTRSH

Hiện nay, trên cả nước có khoảng 400 lò đốt CTRSH, gần 40 dây chuyền sản xuất phân compost tập trung, trên 900 bãi chôn lấp, trong đó có nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh. Một số cơ sở áp dụng phương pháp đốt CTRSH có thu hồi năng lượng để phát điện hoặc có kết hợp nhiều phương pháp xử lý khác nhau.

Hiện nay, khoảng 71% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp (chưa tính lượng bã thải từ các cơ sở chế biến phân compost và tro xỉ phát sinh từ các lò đốt); khoảng 16% tổng lượng chất thải được xử lý tại các nhà máy chế biến phân compost và khoảng 13% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp đốt và các phương pháp khác.

Đặc điểm cụ thể của các phương pháp xử lý chính đang áp dụng thực tế tại Việt Nam như sau:

Phương pháp chôn lấp

Đây là phương pháp đang được áp dụng phổ biến tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã. Nhiều bãi chôn lấp tại các thành phố lớn hiện đang quá tải, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và thường gặp phải sự phản đối của người dân. Hiện nay, các thành phố trên đang xúc tiến triển khai các nhà máy xử lý CTRSH với phương pháp thiêu đốt phát điện để thay thế công nghệ chôn lấp.

Để giải quyết tình trạng này, Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP đã đưa ra quy định về nguyên tắc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi đầu tư mới hoặc đưa vào vận hành các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt ưu tiên đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; bảo đảm giảm dần tỷ lệ CTRSH được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đáp ứng mục tiêu về quản lý tổng hợp chất thải rắn do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kỳ phát triển.

Phương pháp thiêu đốt CTRSH không kết hợp thu hồi năng lượng

Trong các lò đốt CTRSH hiện nay chỉ có khoảng trên 77% có công suất trên 300 kg/h, đáp ứng yêu cầu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 61:2016/BTNMT về lò đốt CTRSH. Nhiều lò đốt, đặc biệt là lò đốt cỡ nhỏ không có hệ thống xử lý khí thải hoặc hệ thống xử lý khí thải không đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Để giải quyết bất cập này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra quy định không khuyến khích xây dựng cơ sở xử lý CTRSH chỉ có phạm vi phục vụ trên địa bàn một đơn vị hành chính cấp xã. Mặt khác, để hạn chế lò đốt cỡ nhỏ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 1298/BTNMT-TCMT ngày 13 tháng 04 năm 2016 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó đề nghị các địa phương không đầu tư mới lò đốt chất thải rắn sinh hoạt công suất nhỏ hơn 300 kg/giờ theo quy định tại QCVN 61-MT:2016/BTNMT sau ngày 01 tháng 5 năm 2016; rà soát, kiểm tra, đánh giá việc đáp ứng các quy định kỹ thuật và yêu cầu bảo vệ môi trường tại QCVN 61-MT:2016/BTNMT của các lò đốt CTRSH đang hoạt động trên địa bàn quản lý của mình để làm cơ sở cho việc xây dựng phương án, lộ trình cải tạo, nâng cấp nhằm đáp ứng đầy đủ quy định tại QCVN 61-MT:2016/BTNMT và các quy định của pháp luật có liên quan.

Quản lý chất thải sinh hoạt và nhà máy xừ lý rác theo công nghệ mới -Phương pháp xử lý kết hợp thu hồi năng lượng

Đặc điểm của phương pháp này là bên cạnh chức năng thiêu hủy chất thải thì năng lượng phát sinh được dùng để sản xuất điện hoặc thu hồi năng lượng cho mục đích khác, đồng thời tiết kiệm quỹ đất so với phương pháp chôn lấp. Có nhiều phương pháp thu hồi năng lượng từ CTRSH, bao gồm đốt trực tiếp thu hồi nhiệt để phát điện, phương pháp nhiệt phân khí hóa trước khi được sử dụng để thu hồi năng lượng và phương pháp đồng xử lý trong lò nung xi măng.

Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu nhiều cơ chế chính sách để thúc đẩy việc xử lý CTRSH bằng phương pháp đốt có thu hồi năng lượng để phát điện. Trong đó, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ cần tăng cường phát triển các nguồn điện từ rác thải đô thị và chất thải rắn. Ngoài ra, Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn đã yêu cầu các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ khẩn trương đầu tư hoặc đưa vào vận hành các nhà máy xử lý rác thải theo hướng công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; phấn đấu đến hết năm 2025 giảm tỷ lệ rác thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp xuống dưới 20%; đồng thời giao Bộ Công Thương tăng cường phát triển các nguồn điện từ chất thải rắn và sinh khối; nghiên cứu, xây dựng cơ chế; chính sách khuyến khích đầu tư, miễn giảm các thủ tục đấu nối và bán điện lưới đối với các nhà máy phát điện sử dụng chất thải rắn, sinh khối.

Theo đánh giá của các chuyên gia, phương pháp này áp dụng có hiệu quả đối với khu vực có lượng CTRSH phát sinh từ 400 - 500 tấn/ngày trở lên; trước mắt nên tập trung phát triển tại vùng kinh tế phát triển, các đô thị lớn, khối lượng chất thải phát sinh nhiều.

Phương pháp chế biến phân compost

Hiện nay trên cả nước có khoảng gần 40 cơ sở xử lý chất thải tập trung áp dụng phương pháp này. Ngoài ra, phương pháp này còn được áp dụng tại quy mô nhỏ lẻ tại các vùng nông thôn, miền núi. Đặc điểm chính là phương pháp này sử dụng phần chất thải hữu cơ để sản xuất phân hữu cơ; phần chất thải vô cơ và cặn bã khác phải tiếp tục xử lý bằng phương pháp khác. Hiện nay, sản phẩm phân compost của một số nhà máy khu vực phía Nam được tiêu thụ khá tốt, chủ yếu là dùng cho các cơ sở lâm nghiệp, cây công nghiệp, góp phần giảm lượng chất thải phải xử lý, đồng thời tạo ra sản phẩm tái chế cho các mục đích khác.

Tuy nhiên, tại các cơ sở chế biến phân compost thường sử dụng các dây chuyền phân loại, điều này thường dẫn đến phát sinh mùi hôi cần phải kiểm soát. Ngoài ra, trong khi một số có thể sản xuất sản phẩm có sức tiêu thụ khá tốt thì một số khác không tiêu thụ được sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc CTRSH không được phân loại triệt để dẫn đến sản phẩm phân compost còn chứa nhiều tạp chất nên khó tiêu thụ; khoảng cách từ các cơ sở xử lý chất thải đến nơi tiêu thụ khá xa.

1.4. Thực trạng thu gom, xử lý chất thải tái chế

Hiện nay, một phần các chất thải có khả năng tái chế phát sinh từ sinh hoạt đã được người dân tự giác phân loại, thu gom và bán cho các cơ sở thu gom phế liệu, cuối cùng được chuyển đến các cơ sở tái chế. Việc này một mặt góp phần giảm thiểu lượng chất thải phải xử lý, tận dụng được tài nguyên có trong chất thải. Tuy nhiên, nhiều cơ sở tái chế nêu trên là các cơ sở tại các làng nghề hoặc là các cơ sở quy mô nhỏ lẻ, sử dụng công nghệ tái chế lạc hậu, không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, các cơ sở này thường phá dỡ, tận dụng các phần có khả năng tái chế, phần không có khả năng tái chế được thải chung với CTRSH. Các hoạt động nêu trên tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không được quản lý phù hợp.

Để giải quyết các bất cập trên, bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân kết hợp với việc kiểm tra, thanh tra theo quy định, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu ban hành quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất trong việc tái chế và thu gom, xử lý chất thải trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tích cực hướng dẫn để triển khai các quy định nêu trên một cách hiệu quả, góp phần giải quyết vấn đề về quản lý CTRSH.

2. Kết quả công tác quản lý CTRSH

2.1. Về tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về CTRSH

Tại Trung ương

Như đã báo cáo ở trên, trước đây công tác quản lý nhà nước về CTRSH được giao cho nhiều Bộ cùng tham gia quản lý, bao gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ. Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện được giao là đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về CTRSH.

Tại địa phương

Trước đây, tại các địa phương không có sự thống nhất trong việc giao cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong vấn đề quản lý CTRSH; một số tỉnh /thành phố giao cho Sở Xây dựng trong khi một số tỉnh /thành phố khác giao Sở Tài nguyên và Môi trường, một số giao cho cả hai đơn vị trong việc tham mưu giúp việc Ủy ban nhân dân tỉnh về quản lý CTRSH.

Sau khi Chính phủ có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019, một số địa phương đã bắt đầu định hướng giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn giúp việc về quản lý CTRSH. Tuy nhiên, đến nay việc chuyển giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn giúp việc về quản lý CTRSH trên cả nước vẫn còn chưa được thực hiện ở tất cả các địa phương.

2.2. Về thực hiện các nội dung quản lý CTRSH đô thị và nông thôn

Về việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ quản lý CTRSH

Theo Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu đến năm 2025, 90% tổng lượng CTRSH phát sinh tại các đô thị được thu gom và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; phấn đấu tỷ lệ CTRSH xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đạt tỷ lệ dưới 30% so với lượng chất thải được thu gom; 80% lượng CTRSH phát sinh tại khu dân cư nông thôn tập trung được thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tự xử lý, xử lý tập trung đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Mặt khác, theo Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21/01/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường theo Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị, mục tiêu đến năm 2025 là 90% chất thải rắn đô thị được thu gom, xử lý, phấn đấu tỷ lệ chất thải rắn đô thị được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp dưới 30% tổng lượng chất thải được thu gom.

Theo kết quả báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác bảo vệ môi trường năm 2020, tỷ lệ chất thải rắn được thu gom tại khu vực đô thị năm 2020 đạt khoảng 94,71%. Như vậy, có thể đánh giá tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH hiện nay tại các đô thị đã đáp ứng được mục tiêu của Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn và Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Chính phủ. Tuy nhiên, với tỷ lệ chôn lấp cao như hiện nay, mục tiêu phấn đấu tỷ lệ CTRSH xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đạt tỷ lệ dưới 30% so với lượng chất thải được thu gom là rất khó đạt được nếu các địa phương không nhanh chóng chuyển đổi các công nghệ chôn lấp hiện có sang các công nghệ xử lý CTRSH tiên tiến, thân thiện hơn với môi trường.

Về nhiệm vụ, Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Chính phủ có đưa ra nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện phân loại chất thải rắn tại nguồn, thu phí rác thải theo khối lượng phát sinh. Nội dung này hiện đã được thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi trường, trong đó đã quy định cụ thể về phân loại tại nguồn và kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay vì hình thức thu bình quân.

Về hướng dẫn quy trình tuyển chọn các nhà đầu tư dự án (công trình) xử lý CTRSH; các chế độ ưu đãi cho các chủ đầu tư dự án xử lý CTRSH.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và cung cấp dịch vụ xử lý CTRSH; Ủy ban nhân dân các cấp lựa chọn cơ sở xử lý CTRSH thông qua hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu; trường hợp không thể lựa chọn thông qua hình thức đấu thầu thì thực hiện theo hình thức đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ đã quy định việc lựa chọn chủ đầu tư cơ sở xử lý CTRSH được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công tư, xây dựng và đấu thầu.

Ngoài ra, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 đã quy định các dự án thu gom, xử lý và tiêu hủy CTRSH thuộc đối tượng được ưu đãi hỗ trợ về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, phí và lệ phí.

Hợp tác quốc tế về quản lý CTRSH.

Trong giai đoạn 2016-2021, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp tục tích cực theo dõi, phối hợp tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các điều ước quốc tế, đặc biệt là các Điều ước quốc tế liên quan đến quản lý chất thải. Thường xuyên liên lạc, trao đổi thông tin với các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế để triển khai các nhiệm vụ, cam kết đối với các điều ước, thỏa thuận quốc tế. Chủ động lồng ghép quy định của các công ước, điều ước quốc tế trong việc triển khai xây dựng các văn bản pháp quy trong lĩnh vực môi trường.

Đặc biệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Môi trường Hàn Quốc, Bộ Môi trường Nhật Bản, các tổ chức quốc tế trong việc hợp tác xây dựng các quy định có liên quan đến quản lý CTRSH, đặc biệt là xây dựng quy định về phân loại chất thải tại nguồn, thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo khối lượng và thể tích chất thải; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt CTRSH; hướng dẫn kỹ thuật về quản lý chất thải sinh hoạt đảm bảo quản lý chặt chẽ CTRSH và các chất thải thứ cấp phát sinh từ quá trình xử lý.

3. Kết quả thực hiện các quy hoạch về quản lý CTRSH

Hiện nay, bên cạnh các quy hoạch quản lý chất thải rắn do các địa phương ban hành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các quy hoạch quản lý chất thải rắn cấp vùng, lưu vực sông như quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 tại Quyết định số 1979/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2016, quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn lưu vực sông Cầu đến năm 2020 tại Quyết định số 2211/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2013, quy hoạch quản lý chất thải rắn lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2030 tại Quyết định số 223/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2015, quy hoạch quản lý chất thải rắn lưu vực sông Đồng Nai đến năm 2030 tại Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2015.

Theo các quy hoạch nêu trên, hiện nay trên cả nước chỉ có một số khu xử lý CTRSH cấp vùng, còn lại là các khu xử lý cấp tỉnh, huyện, xã. Trên thực tế, hiện nay hầu hết CTRSH được xử lý theo quy mô từng tỉnh, không có khu xử lý vùng. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang phối hợp với tỉnh Long An thực hiện dự án Khu Công nghệ Môi trường xanh (1.760 hecta) tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An để xử lý chất thải rắn của vùng. Các phương pháp xử lý được quy hoạch gồm chôn lấp hợp vệ sinh, thiêu hủy bằng lò đốt, sản xuất phân vi sinh hoặc các phương pháp khác. Nội dung chính của các quy hoạch quản lý chất thải rắn nêu trên chủ yếu liên quan đến địa điểm, phương pháp xử lý mà ít tập trung đến các vấn đề như phân loại tại nguồn, thu gom, vận chuyển hoặc nguồn kinh phí, thể chế để thực hiện. Mặt khác, hầu hết các địa phương quy hoạch xử lý CTRSH cho chất thải phát sinh trên địa bàn nên việc thực hiện các quy hoạch vùng đến nay còn gặp rất nhiều khó khăn.

Mặc dù đã đạt được nhiều mặt tích cực nhưng còn hạn chế trong công tác lập và triển khai quy hoạch như chất lượng của công tác quy hoạch chưa cao; việc xác định vị trí, địa điểm xây dựng cơ sở xử lý chất thải gặp khó khăn do người dân phản đối (điều này diễn ra phổ biến ở các địa phương); quy hoạch thiếu yếu tố liên kết vùng; việc tổ chức triển khai quy hoạch quản lý chất thải rắn đã phê duyệt tại các địa phương còn chậm, thiếu nguồn lực để thực hiện quy hoạch; việc lựa chọn công nghệ và nhà đầu tư để thực hiện quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn.

Theo Luật sửa đổi, bổ sung 37 luật liên quan đến quy hoạch, quản lý chất thải là một nội dung của quy hoạch bảo vệ môi trường và Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị tổ chức lập quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia; xây dựng nội dung bảo vệ môi trường trong quy hoạch vùng; hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng nội dung bảo vệ môi trường trong quy hoạch tỉnh. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang khẩn trương tiến hành xây dựng Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, trong đó có nội dung về quy hoạch quản lý chất thải và dự kiến trình ban hành vào đầu năm 2023.

4. Kết quả thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật

Các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quản lý CTRSH trong thời gian qua được lồng ghép vào các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung. Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp cùng các Bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức như duy trì, mở rộng các chuyên trang, chuyên mục môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng; phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với các cơ quan truyền thông đại chúng như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam,... đưa tin, tuyên truyền nhanh chóng, chính xác và kịp thời về các quy định về quản lý CTRSH, đặc biệt là các quy định mới tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành; tổ chức triển khai các chương trình truyền thông về môi trường và quản lý chất thải.

Tương tự, công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về quản lý CTRSH được thực hiện lồng ghép trong công tác thanh tra, xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường nói chung. Trong thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm số lượng các cơ sở thanh tra theo kế hoạch, tăng cường thanh tra đột xuất, xử phạt nghiêm các đối tượng vi phạm để răn đe và tạo dư luận buộc các cơ sở đang hoạt động sản xuất, kinh doanh phải quan tâm, đầu tư cho môi trường, tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng. Các địa phương cũng đã quyết liệt chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Qua báo cáo của các địa phương cho thấy số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại các địa phương phần lớn đã giảm đáng kể.

5. Nguồn lực cho quản lý CTRSH

Hiện nay, các nguồn lực phục vụ công tác quản lý CTRSH bao gồm:

a) Phí vệ sinh hoặc giá dịch vụ thu gom, vận chuyển

Hiện nay, kinh phí thu được từ các hộ gia đình, cá nhân chỉ bù đắp một phần chi phí thu gom hoặc vận chuyển, phần còn lại được ngân sách địa phương chi trả. Các địa phương khi ban hành giá dịch vụ thu gom, vận chuyển CTRSH trên địa bàn tỉnh đều chia ra các đối tượng khác nhau, tuy nhiên hầu hết đều thu theo hộ gia đình không sản xuất, kinh doanh, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, trụ sở làm việc của các đơn vị hành chính, sự nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, mức giá được quy định căn cứ vào doanh thu của doanh nghiệp hoặc căn cứ vào khối lượng CTRSH thực tế phát sinh để thu.

b) Nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường

Nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường (trong đó có các nội dung chi cho công tác quản lý CTRSH) tăng dần hàng năm, ở cả Trung ương và địa phương, cụ thể: năm 2015 là 11.400 tỷ đồng (trong đó Trung ương: 1.700 tỷ, địa phương: 9.700 tỷ; tăng 14,2% so với năm 2014), năm 2018 là 18.392 tỷ đồng tương đương 1,2% tổng chi ngân sách Nhà nước (trong đó Trung ương: 2.100 tỷ đồng, địa phương: 16.292 tỷ đồng), năm 2019 là 20.442 tỷ đồng tương đương 1,25% tổng chi ngân sách Nhà nước (trong đó Trung ương: 2.290 tỷ đồng, địa phương: 18.152 tỷ đồng) (Bộ Tài chính, 2015 & 2020). Năm 2021, nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường chi cho công tác bảo vệ môi trường là 21.222 tỷ đồng (trong đó nguồn ngân sách Trung ương chi cho các Bộ, ngành là: 2.205 tỷ đồng và địa phương là: 19.017 tỷ đồng).  

c) Các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý CTRSH

Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH bao gồm ngân sách Nhà nước (vốn đầu tư phát triển, vốn ngân sách Trung ương và địa phương, vốn ODA…) và các nguồn vốn khác. Đối với lĩnh vực xử lý CTRSH đô thị, khu vực kinh tế tư nhân đã có sự tham gia tích cực hơn. Nhiều địa phương đang thúc đẩy thu hút đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo hình thức xã hội hoá hoặc đầu tư theo hình thức đối tác công tư, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp do việc này có liên quan đến nhiều quy định của pháp luật như pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai, pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đấu thầu, pháp luật về môi trường...

III. Kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

1. Khái quát những kết quả đạt được

- Hệ thống văn bản pháp quy ngày một hoàn thiện, tạo căn cứ pháp lý quan trọng để quản lý chất thải thống nhất theo định hướng mới; là bước tiến quan trọng để thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải; góp phần ngăn chặn các công nghệ xử lý chất thải lạc hậu, công nghệ chôn lấp và nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường;

- Tỷ lệ thu gom CTRSH tại khu vực đô thị ngày càng tăng, đáp ứng mục tiêu theo Chiến lược Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21/01/2021 của Chính phủ;

- Đã xây dựng được các quy hoạch quản lý chất thải rắn cấp vùng và quy hoạch tại các địa phương, làm căn cứ để xây dựng các cơ sở xử lý CTRSH;

- Một số địa phương, đặc biệt là các thành phố trực thuộc Trung ương đã bắt đầu áp dụng những công nghệ mới, tiên tiến như đốt có thu hồi năng lượng làm căn cứ để xem xét, nhân rộng;

- Sự quan tâm của các cấp, các ngành, ý thức của người dân và của xã hội ngày một tăng đối với công tác quản lý CTRSH.

2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.1. Hạn chế, yếu kém

- Phần lớn CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, các chương trình phân loại CTRSH tại các địa phương tuy được triển khai nhiều năm gần đây nhưng mang tính xây dựng mô hình, chưa đồng bộ;

- Tỷ lệ chất thải được chôn lấp còn cao; công nghệ xử lý CTRSH của nhiều cơ sở còn lạc hậu;

- Công suất xử lý CTRSH hiện hữu không đáp ứng được khối lượng CTRSH phát sinh, trong khi việc đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng dự án không đáp ứng yêu cầu;

- Các công nghệ xử lý CTRSH tiên tiến, hiện đại có giá thành đầu tư, xử lý cao trong khi ngân sách của các địa phương dành cho xử lý CTRSH còn hạn chế.

2.2. Nguyên nhân

- Việc thu phí vệ sinh (giá dịch vụ) CTRSH đối với các hộ gia đình, cá nhân được thu theo hộ gia đình hoặc theo nhân khẩu dẫn đến việc không khuyến khích người dân giảm thiểu lượng chất thải phát sinh, phân loại tại nguồn.

- Việc xây dựng các cơ sở xử lý chất thải hiện đại đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, nhiều địa phương không đủ nguồn lực hoặc đầu tư chưa tương xứng; trong khi đó, việc thúc đẩy xã hội hóa hoặc đầu tư theo hình thức đối tác công tư đối với cơ sở xử lý CTRSH còn chậm do có liên quan đến nhiều quy định của pháp luật như pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai, pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đấu thầu, pháp luật về môi trường...

- Nhiều địa phương còn chưa chủ động trong công tác triển khai xây dựng các cơ sở xử lý chất thải; việc đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải phân tán, nhỏ lẻ...

- Việc quy hoạch, xác định vị trí, địa điểm xây dựng cơ sở xử lý chất thải gặp khó khăn do người dân phản đối; việc tổ chức triển khai quy hoạch tại các địa phương còn chậm, thiếu nguồn lực để thực hiện;

- Nhận thức của một bộ phận người dân trong việc phân loại, lưu giữ, thu gom, vận chuyển CTRSH còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi, người dân chưa tích cực tham gia vào các hoạt động phân loại tại nguồn, chưa đóng phí vệ sinh môi trường đầy đủ.

IV. Giải pháp và đề xuất, kiến nghị

1. Nhiệm vụ và giải pháp  

Các giải pháp đã thực hiện:

Ngay sau khi Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019 được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01/12/2020 về giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn; xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật BVMT năm 2020, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 và ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022, trong đó có nhiều quy định mới, cụ thể so với trước đây về quản lý CTRSH, bao gồm quy định về phân loại chất thải tại nguồn, lộ trình hạn chế chôn lấp trực tiếp chất thải; tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lý CTRSH; thu giá, phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH từ hộ gia đình, cá nhân theo khối lượng hoặc thể tích chất thải; hướng dẫn về phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH… Bên cạnh đó, để sớm đưa Luật bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật vào thực tiễn cuộc sống, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn cho các địa phương trong tổ chức thực hiện các quy định mới của Luật, đồng thời cũng đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, nhất là trong lĩnh vực quản lý CTRSH, thực hiện phân loại CTRSH tại nguồn.

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang khẩn trương thực hiện các nội dung như sau:

- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về phân loại rác thải tại nguồn để các địa phương làm căn cứ thực hiện (hiện nay đang hoàn thiện dự thảo căn cứ vào góp ý của các địa phương và ban hành vào đầu năm 2023);

- Xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bãi chôn lấp chất thải rắn và về lò đốt chất thải (đã xây dựng dự thảo, đang hoàn thiện dựa trên ý kiến của các địa phương và các đơn vị liên quan), dự kiến ban hành trong năm 2023;

- Triển khai thí điểm các hoạt động phân loại CTRSH tại hộ gia đình và cá nhân tại một số địa phương;

- Xây dựng và ban hành các hướng dẫn kỹ thuật đối với việc cải tạo, nâng cấp và xử lý ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp rác thải không hợp vệ sinh, các khu vực bị ô nhiễm do rác thải gây ra, đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường;

- Xây dựng và ban hành, công bố danh mục công nghệ xử lý CTRSH khuyến cáo áp dụng tại Việt Nam, làm cơ sở cho các địa phương tổ chức triển khai;

- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật; truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về quản lý CTRSH theo các quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Các hoạt động sẽ tiếp tục triển khai:

- Tổ chức thực hiện tốt các chính sách mới trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó đề cao vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương, của người dân và doanh nghiệp. Thực hiện thí điểm, sớm hơn lộ trình quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 trong việc triển khai phân loại rác thải tại nguồn; thu giá, phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo khối lượng, bao bì chứa tại một số tỉnh, thành phố lớn. Triển khai thực hiện hiệu quả quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu, ưu tiên khuyến khích doanh nghiệp chủ động xây dựng hệ thống thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì sau xử lý của mình.

- Rà soát, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến quản lý CTRSH; cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích xã hội hóa trong công tác quản lý CTRSH, đặc biệt là trong việc khuyến khích đầu tư xây dựng và vận hành cơ sở xử lý CTRSH, triển khai áp dụng mô hình thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo quy định của pháp luật về BVMT và Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của dự án, phát huy và đa dạng hóa nhiều nguồn lực cho xử lý chất thải.

- Xây dựng, hoàn thiện và ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH.

- Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực: các địa phương cần bố trí quỹ đất cho khu xử lý CTRSH theo quy hoạch, bố trí đủ kinh phí cho việc đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, lưu giữ, trung chuyển, vận chuyển và xử lý CTRSH trên địa bàn.

2. Đề xuất, kiến nghị

a) Đối với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, trong đó có một số điểm mới đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa đột phá đối với công tác quản lý CTRSH như phân loại chất thải tại nguồn, thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý theo khối lượng chất thải phát sinh. Vì vậy, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện; đồng thời đã chỉ đạo quyết liệt trong triển khai thực hiện.

Kính đề nghị Quốc hội quan tâm, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giám sát triển khai thực hiện tại các địa phương, góp phần đưa Luật Bảo vệ môi trường đi vào thực tiễn cuộc sống; đồng thời cụ thể hóa các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng xử lý CTRSH, trong đó ưu tiên bố trí vốn đầu tư công đối với đầu tư cơ sở hạ tầng xử lý CTRSH tại các địa phương.

 b) Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tiếp tục chỉ đạo để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn theo tinh thần Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/2/2019 của Chính Phủ và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó chỉ đạo các Bộ ngành liên quan khẩn trương rà soát các nội dung liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn tại các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành, trên cơ sở đó đề xuất và trình Chính phủ xem xét các nội dung điều chỉnh phù hợp theo đúng quy định.

c) Đối với Bộ, ngành trung ương.

- Rà soát lại chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy được giao, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét để điều chỉnh, sửa đổi và giao trách nhiệm thống nhất quản lý CTRSH cho ngành tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương.

- Các Bộ, ngành cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích xã hội hóa trong công tác quản lý CTRSH, đặc biệt là trong việc khuyến khích đầu tư xây dựng và vận hành cơ sở xử lý CTRSH, đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của dự án.

- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác quản lý CTRSH, đảm bảo liên thông, thuận lợi.

d) Đối với Hội đồng nhân dân, UBND cấp tỉnh.

Các địa phương cần nhanh chóng thực hiện các trách nhiệm nêu trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp lý có liên quan, cụ thể như sau:

- Khẩn trương thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2020 về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn, trong đó lưu ý chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phó trực thuộc trung ương phải chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH trên địa bàn.

- Trong quá trình xây dựng quy hoạch tỉnh, các địa phương cần rà soát các quy hoạch có liên quan đến vị trí, quy mô của các khu xử lý chất thải trên địa bàn để lồng ghép vào quy hoạch tỉnh, phù hợp với định hướng trong quy hoạch vùng, quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia theo đúng như Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ.

- Bố trí quỹ đất cho khu xử lý CTRSH, thực hiện việc giao đất kịp thời để triển khai xây dựng và vận hành khu xử lý CTRSH trên địa bàn theo quy hoạch đã được phê duyệt; bố trí đủ kinh phí cho việc đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, lưu giữ, trung chuyển, vận chuyển và xử lý CTRSH trên địa bàn; bố trí nguồn lực, kinh phí cho việc xử lý, cải tạo môi trường bãi chôn lấp CTRSH do Nhà nước quản lý và bãi chôn lấp CTRSH tự phát.

- Tăng cường phát triển nguồn nhân lực đảm bảo yêu cầu quản lý; huy động nguồn lực toàn xã hội tham gia vào công tác giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH.


Phụ lục I. Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý CTRSH

1. Các văn bản do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành

- Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Bảo vệ môi trường năm 2020;

- Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020;

- Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường;

- Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;

- Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu;

- Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường;

- Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;

- Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn;

- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dậy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;

- Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;

- Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13 tháng 4 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;

- Quyết định số 491/2018/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050;

- Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg ngày 05/5/2014 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam;

- Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.

2.  Các văn bản do các Bộ ban hành

2.1. Các quy định về quy chuẩn kỹ thuật về môi trường

- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 61: 2016/BTNMT về lò đốt CTRSH;

- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 07-9:2016/BXD về các công trình hạ tầng kỹ thuật - Công trình quản lý chất thải rắn và nhà vệ sinh công cộng;

- TCXDVN 261-2001: Bãi chôn lấp chất thải rắn - Tiêu chuẩn thiết kế.

2.2. Các quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật, suất vốn đầu tư, phương pháp lập, quản lý chi phí; phương pháp định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH

- Thông tư số 07/2017/TT-BXD ngày 15/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH;

- Thông tư số 14/2017/TT-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định và quản lý chi phí dịch vụ công ích đô thị;

- Quyết định số 1354/QĐ-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng công bố suất vốn đầu tư xây dựng và mức chi phí xử lý CTRSH;

- Quyết định số 592/QĐ-BXD ngày 30/5/2014  Bộ trưởng Bộ Xây dựng công bố định mức dự toán thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn đô thị;

- Thông tư số 02/2017/TT-BTC ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường, trong Thông tư này quy định về việc sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để hỗ trợ công tác quản lý chất thải, đánh giá các nguồn thải và thực hiện các đề án/dự án xử lý chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng;

- Thông tư số 135/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 69/2008/NĐ-CP 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường;

- Thông tư số 121/2008/TT-BTC ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư cho quản lý chất thải rắn;

- Thông tư số 136/2017/TT-BTC ngày 22/12/2017 Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về lập, quản lý, sử dụng kinh phí chi hoạt động kinh tế đối với các nhiệm vụ chi về tài nguyên và môi trường;

- Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

 

GỌI NGAY – 0903649782 - 028 35146426
ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ CUNG CẤP CÁC DỊCH VỤ HẤP DẪN VỚI MỨC GIÁ TỐT NHẤT

TẠI CÔNG TY CP TƯ VẤN ĐẦU TƯ & THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

Địa chỉ: P.2.14 Chung cư B1 Trường Sa, P.17, Bình Thạnh
E-mail:   nguyenthanhmp156@gmail.com

Bình luận (0)

Gửi bình luận của bạn

Captcha